Thịt thỏ là một trong những món ăn phổ biến trên bàn ăn của người dân, thỏ phân bố khắp nơi trên nước ta. Thông thường có thỏ Mông Cổ, thỏ Đông Bắc, thỏ Cao Nguyên, thỏ Hoa Nam, thỏ nhà v. v., chủ yếu lấy phần xanh của cây thân thảo làm thức ăn chính. Các nhà dinh dưỡng đã so sánh nhiệt năng và thành phần dinh dưỡng của thịt thỏ và lợn, bò, cừu, gà......
Năng lượng nhiệt cho mỗi 100g thịt thỏ là 128,1 kcal, bằng 37,9% thịt kẹp lợn, 68,5% thịt đùi lợn, 64,4% thịt cừu, 89,7% thịt bò và 63,7% thịt gà.
Mỗi 100g thịt thỏ chứa 23,7g protein, gấp 1,84 lần thịt kẹp lợn, 1,34 lần thịt đùi lợn, 1,3 lần thịt cừu, 1,17 lần thịt bò và 1,43 lần thịt gà.
Mỗi 100g thịt thỏ chứa 7,7mg sắt, gấp 5,5 lần thịt kẹp lợn, 3,1 lần thịt chân lợn, 2,3 lần thịt cừu, 2,4 lần thịt bò và 11 lần thịt gà; Hàm lượng chất béo 3,7g là 28,7% thịt đùi lợn, 27,8% thịt cừu, 60% thịt bò và 26,2% thịt gà.
Mỗi 100g thịt thỏ chứa 67,5mg cholesterol, bằng 62,6% thịt kẹp lợn, 86,4% thịt chân lợn, 70,5% thịt cừu, 63,7% thịt bò và 54,2% thịt gà.
Bởi vậy có thể thấy được, thịt thỏ là một loại thực phẩm lành mạnh có hàm lượng protein cao, sắt cao, nhiệt lượng thấp, chất béo thấp, cholesterol thấp.
Thịt thỏ không chỉ giàu dinh dưỡng, hương vị thơm ngon, mà còn có giá trị dược liệu khá tốt, tính vị ngọt, lạnh, vào gan, đại tràng kinh, có bổ trung ích khí, lạnh huyết giải độc. Chủ trị các bệnh như tiêu khát suy nhược (tiểu đường), nôn mửa, nôn mửa dạ dày...... Danh y biệt lục có câu: "Chủ bổ trung ích khí". Bản thảo cương mục có câu: "Lương huyết, giải nhiệt độc, lợi đại tràng". Lại có câu: "Kim tục dĩ thỏ nhục nhi nhi, vân lệnh xuất đậu hi, cái diệc nhân tính hàn nhi giải nhiệt nhĩ. Cho nên lại có thể trị tiêu khát, nhược đậu dĩ xuất giá hư hàn giả nghi giới chi". Đường bản thảo có ghi chép "Thỏ cao, chủ tai điếc". Trong "Tập nghiệm phương trên biển" giới thiệu: "Lấy một con thỏ, lột da móng ngũ tạng, lấy nước một đấu nửa chiên cho nát, cốt nhục tách ra, lấy cốt nhục ra, làm nước lạnh, khát tức uống, trị liệu chứng tiêu khát suy nhược".
Ngoài ra, nhiều nơi trên cơ thể thỏ có giá trị dược liệu cao, được giới thiệu như sau:
(1) Máu thỏ: Tính vị mặn, lạnh. Bản thảo cương mục "có câu:" Máu lạnh, hoạt huyết, giải độc trong thai, thúc đẩy dễ sinh. "Phương kinh nghiệm Thụy Trúc Đường lấy máu thỏ và trà mạt 120g, nhũ hương mạt 60g, giã viên lớn như Khiếm Tử, mỗi ngày một viên, giấm ấm đưa vào uống, trị đau tim.
b) Gan thỏ: Tính vị ngọt đắng mặn, lạnh. (văn) ① Lầm lẫn; ② Giả dối; ③ Giả dối. Thánh Tế tổng lục "lấy hoàng liên 50 g, hồ hoàng liên 30 g, thục địa hoàng 30 g, thảo quyết minh 15 g, gan thỏ một bộ. Bôi thuốc nghiên cứu tỉ mỉ, đồng thời cắt nhỏ gan thỏ, cùng nhau nghiên cứu nát và lớn như ngô tử. Mỗi lần uống 20 viên, uống trước khi đi ngủ, chủ trị chứng gan hư mắt tối.
(3) Xương thỏ: Tính bình, vị chua ngọt. Chủ trị các chứng tiêu khát, choáng váng, ghẻ lở...... Sách "Bản thảo nhặt của rơi" có câu: Trị ghẻ lở, giấm mài đắp. Tứ Xuyên Đông y chí "có câu" Trị choáng váng choáng váng, điên tật ". Lại lấy xương thỏ 50 g, hưởng linh thảo 12 g, thiên ma 12 g, sắc uống nước, trị choáng váng choáng váng. Phương thuốc tập nghiệm trên biển "lấy xương thỏ và lúa mạch nấu nước uống trong, điều trị tiêu khát suy nhược, tiểu tiện không khỏi.
d) Não thỏ: Tính ôn, chủ yếu chữa bệnh thai sản bất lợi, lở loét, bỏng, da nứt nẻ. Thái Bình Thánh Huệ Phương có câu: "Tay chân nứt nẻ thành lở loét, sinh đồ chi lương". Chứng trị chuẩn dây "thúc đẩy sinh đan (tức não thỏ hoàn) lấy tủy não thỏ một cái (bỏ màng da, nghiền như bùn), đinh hương 5 g (nghiền nhỏ), nhũ hương 8 g, xạ hương 3 g, các loại thuốc trộn đều hòa hoàn, đầu gà đá lớn, khô ráo. Mỗi ngày một viên, nước ấm đưa uống, chủ trị sản phụ sinh sản gian nan hoặc ngang hoặc nghịch.
Ngoài ra, điều đáng nói là sắt trong thịt thỏ là sắt hemoglobin, dễ hấp thụ nhất bởi cơ thể, vì vậy, đối với phụ nữ mang thai đặc biệt cần bổ sung sắt, thanh thiếu niên, trẻ em trong thời kỳ phát triển và thiếu máu do thiếu sắt, thịt thỏ có thể được gọi là "thực phẩm bổ sung máu" tốt nhất.
Địa chỉ bài viết này: