Theo vị trí khác nhau, thịt lợn đại khái chia làm 10 loại. Thịt lợn ở các bộ phận khác nhau có hàm lượng chất béo và hương vị khác nhau rất lớn, cũng vì vậy thích hợp với các phương pháp nấu nướng khác nhau.
Lợn có lượng calo cơ bắp thấp nhất
Thịt ở các bộ phận khác nhau, nhiệt lượng khác nhau! Các chuyên gia chỉ ra rằng "cơ bắp nhỏ" (thường được gọi là "thịt trong thắt lưng") trong thịt lợn có lượng calo thấp nhất trong các bộ phận của lợn, chỉ 90 calo mỗi 100 gram. Đồng thời chuyên gia cũng công bố ba bí quyết lớn để ăn thịt lợn: chọn bộ phận, khử mỡ, ít chiên.
Trong các bộ phận, cơ bắp nhỏ (thịt trong thắt lưng) nhiệt lượng thấp nhất, mỗi trăm gram chỉ có 90 calo.
"Thịt chân sau" và "thịt chân trước", mỗi 100 gram nhiệt lượng mỗi loại chỉ có 1,4 và 1,5 calo.
Cơ bắp nhỏ: Là một miếng thịt nạc phía dưới xương sống kết nối với sườn lớn. Thịt không có gân, là bộ phận mềm nhất của thịt heo. Hàm lượng nước nhiều, hàm lượng chất béo thấp, sợi cơ nhỏ, chiên, xào, nổ và các phương pháp nấu khác đều phù hợp.
Thịt mông nhọn: Nằm ở phía trên mông, đều là thịt nạc, thịt tươi mới, khi nấu có thể dùng để thay thế thịt thăn.
Thịt mông ngồi: Nằm phía trên chân sau, phía dưới thịt mông nhọn. Tất cả đều là thịt nạc, nhưng thịt già hơn, sợi dài hơn, thường dùng khi làm thịt thái trắng hoặc thịt hầm.
Thịt ba chỉ: Thịt khuỷu tay là xương sườn, là một tầng thịt mỡ, một tầng thịt nạc gắp lên, thích hợp với kho tàu, hầm trắng và làm thịt hấp.
Thịt chân trước: còn gọi là thịt kẹp tim, nằm ở phần trên chân trước, nửa béo nửa gầy, thịt nhiều gân, khả năng hấp thu nước khá mạnh, thích hợp làm nhân bánh và thịt viên. Ở vị trí này có một loạt xương sườn, gọi là sườn nhỏ, thích hợp làm sườn chua ngọt hoặc nấu canh.
Thịt hàng đầu: còn gọi là thịt não, là một miếng thịt gần cổ, thịt nạc kẹp mập, thịt khá mềm, thích hợp làm thịt bún và thịt hầm.
Thịt bơ sữa: Ở bụng dưới xương sườn, mô liên kết nhiều, đều có dạng bong bóng, thịt kém, thường làm thịt khô hoặc mỡ lợn, cũng có thể nấu, hầm hoặc dùng để làm thịt bơ.
Thịt đạn: Nằm trên đùi sau, đều là thịt nạc, thịt non mịn, gân ít, sợi cơ ngắn, thích hợp cho xào, chiên......
Móng guốc: Nằm ở phần dưới chân trước và chân sau, móng sau tốt hơn móng trước, kho tàu và hầm cách thủy đều được.
Thịt cổ: còn gọi là cổ máu, thịt đầu rãnh, ở phía trước chân trước nối liền với đầu heo, là vị trí lưỡi dao khi mổ heo, có nhiều máu bẩn, màu da đỏ lên, béo gầy chẳng phân biệt được, chất thịt kém, thường dùng để làm nhân bánh và thịt xiên nướng.
(1) Thịt vai
Thịt thô, hàm lượng vitamin B1 cao, giá trị dinh dưỡng cao. Có thể cắt thành thịt băm, thái lát mỏng, thái góc, làm thành thịt viên, cà ri hoặc thịt kho......
(2) Thông qua sườn núi, sườn núi bên ngoài
Hàm lượng dầu vừa phải, hương vị thịt lợn tuyệt vời. Có thể lấy ra miếng thịt lợn rán lớn, cũng thích hợp với các loại thịt heo.
(3) Thịt thăn
Thịt mềm, nhiều vitamin B1 và ít chất béo, là một yêu thích để giảm cân hoặc người cao tuổi.
(4) Thông qua sườn núi, sườn núi ngoài
Thứ hai là thịt lợn thượng hạng, mùi thơm mạnh, có thể được cắt thành những miếng lớn, thích hợp nhất để làm sườn lợn chiên.
(5) "Thịt ba chỉ", bộ phận "thịt ba tầng" trong tiếng Đài Loan.
Thịt cứng nhiều, protein ít, thích hợp để hầm hoặc kho, hoặc thái lát làm canh thịt lợn.
(6) Phần bên trong của chân.
Thịt mềm và nhiều protein. Thích hợp với các món ăn, chỗ yêu thích làm chân giò hun khói.
(7) Các bộ phận của cơ bắp bên ngoài của chân
Mỡ ít thịt cứng thịt đỏ nhiều. Cắt mỏng hoặc cắt góc, dùng để nướng thịt, chiên thịt.
Địa chỉ bài viết này: